Khi nói đến cuộc đời, nói đến những trắc trở, những khó khăn trong cuộc sống, trong tình cảm, người ta thường thốt lên rằng: “đời là bể khổ, tình là dây oan”. Nghe có vẻ như tiêu cực hóa cuộc sống trần thế này, nhưng điều quan trọng là cần phải hiểu rằng mỗi nghịch cảnh, mỗi khổ đau đều le lói niềm hy vọng để con người có thêm khát vọng sống. Người ta thường nhìn về khía cạnh tiêu cực của nghịch cảnh, đau khổ, nhưng thật ra mỗi nghịch cảnh, mỗi đau buồn đều mở ra con đường để người ta hóa giải và bước tiếp trong cuộc hành trình lữ thứ trần gian. Điều quan trọng là biết cách chấp nhận và sống với nó, và xem đó như là thánh giá cuộc đời của mỗi người, thậm chí nhận ra ân sủng mà Chúa ban trong mỗi biến cố cuộc đời.
Trong thế giới đa sắc tộc, đa văn hóa và đa tôn giáo ngày nay, cách nhìn nhận về vấn đề đau khổ và nghịch cảnh mang nhiều sắc thái khác nhau. Trong chiều hướng đối thoại đại kết và liên tôn với những anh chị em khác tôn giáo, nhằm hiểu biết thêm một cách giải quyết về vấn đề này, chiều thứ Bảy 30/10/2010, Ban Mục Vụ Gia Đình, TGP. Sài Gòn đã mời Đại Đức Tiến sĩ Phật Giáo Thích Quang Thạnh đến chia sẻ đề tài “ĐỐI DIỆN VỚI NGHỊCH CẢNH & KHỔ ĐAU”. Bằng chất giọng ấm cúng, hiền hòa, pha chút dí dỏm, thầy đã mang lại không khí vui tươi, tràn ngập nụ cười cho buổi thuyết trình để các tham dự viên có thể đi vào những thực trạng xã hội cùng với những cách thức hóa giải khổ đau.
Trong cuộc sống xã hội ngày nay, con người phải đối diện với rất nhiều vấn đề thời đại. Khoa học càng phát triển bao nhiêu thì nhu cầu cuộc sống và điều kiện sống càng phải nâng cao bấy nhiêu theo nhu cầu của xã hội. Thế nhưng, khoa học càng phát triển thì trớ trêu thay, đạo đức con người càng xuống cấp, tỷ lệ nghịch với những phát triển của khoa học. Có thể nói rằng đi vào trong cuộc đời là đi vào biển cả, tất cả những ai đi vào biển cả buộc phải đối diện với sóng to gió lớn, không thể nào mong cầu không có sóng khi bước vào đại dương. Cuộc đời cũng vậy, khi đi vào đời, người ta phải chuẩn bị và biết chắc rằng sẽ phải đối diện với nhiều nghịch cảnh, khổ đau. Có như vậy thì con người mới ngày càng tiến bộ và mới hiểu được chân giá trị của cuộc sống trước những bão táp, phong ba của cuộc đời.
Không phải cuộc đời đầy dẫy những khổ đau, cũng không phải có quá nhiều nghịch cảnh nhưng đó là do bản chất của cuộc đời giống như đại dương, biển cả buộc phải có sóng gió. Chúng ta đi vào đó bằng phương tiện nào để có thể làm chủ được những làn sóng đó, nếu những ai không chịu đựng được những làn sóng đó thì họ xem là nghịch cảnh, bằng ngược lại những ai chinh phục được sóng to, gió lớn như vậy thì họ cảm thấy đại dương vẫn bình thường. Cuộc đời cũng vậy, khổ đau hay vui sướng hạnh phúc đều do cảm nhận của con người, nhưng hầu hết người ta gặp phải nghịch cảnh, khổ đau hơn là gặp được những giây phúc an lạc và hạnh phúc trong cuộc đời này.
Để phân tích một vấn đề nào, cần phải hiểu ý nghĩa của nó, vậy nghịch cảnh là gì, khổ đau là chi? Nghịch cảnh là những gì nghịch lại, những gì cản trở cuộc sống của con người chúng ta, những ước muốn mà con người không thể thực hiện được. Còn khổ đau là sự đau đớn về thân xác và tâm hồn trước một sự việc, hiện tượng nào đó.
Trong cuộc đời mỗi người, không phân biệt già trẻ, ai cũng có thể gặp phải những nghịch cảnh cuộc sống, tùy vào sự phát triển của xã hội cũng như môi trường sống và làm việc, học tập mà mỗi người có thể gặp phải những nghịch cảnh ở những cung bậc khác nhau của nó.
Đối với trẻ em chưa đến độ tuổi trưởng thành, mặc dù chẳng phải lo cái ăn, cái mặc, nhưng chuyện học lại là một nghịch cảnh trớ trêu mà chúng phải đối phó. Câu chuyện giáo dục vẫn là câu chuyện dài chưa đến hồi kết trong bao nhiêu năm qua, việc học quá nặng nề khiến cho tâm hồn trẻ thơ trở nên rối loạn. Phải chăng nền giáo dục muốn tập cho các em tính kiên nhẫn chịu đựng khi mà chúng phải học quá nhiều, chúng bị gò vào những khuôn khổ phi lý trong khi còn đang ở độ tuổi chỉ thích hợp cho việc vừa học vừa chơi để thanh thoát tâm hồn và phát triển trí tuệ.
Ở người trẻ bắt đầu trưởng thành, khi đang học trung học, đại học, đã bắt đầu hình thành ước mơ, hoài bão khi sắp bước vào đời, ngoài khó khăn trong việc học khi bước vào ngưỡng cửa của tình yêu đôi lứa, thì sự thay đổi và phát triển tâm sinh lý ở lứa tuổi này cũng là một trở ngại. Sự tò mò và muốn khám phá về những biến chuyển cơ thể cũng như những chân trời rộng mở của cuộc sống mà không có được sự hướng dẫn, giáo dục thích đáng của nhà trường, của gia đình, của những người đi trước đôi lúc cũng làm chùng bước của những người trẻ.
Tình yêu đôi lứa có thể là một khung trời hoa mộng đối với nhiều người, nhưng bước vào đời sống hôn nhân, nếu không được học hỏi, không có tâm lý chuẩn bị để có sự hòa hợp cần thiết thì nhiều người cảm thấy trớ trêu thay cuộc sống gia đình. Trong đời sống gia đình, cái tôi ung dung tự tại, cái tự do của thời độc thân muốn làm gì thì làm cho thỏa thích không còn nữa. Nơi gia đình, mỗi người cần phải sống với trách nhiệm, phải sống theo nề nếp mà đôi lúc xưa nay người độc thân chưa quen sống. Bên cạnh đó, tình cảm vợ chồng lâu dần cũng nhạc phai theo năm tháng, rồi tâm lý con người biến đổi khi người vợ sinh con, khi vợ chồng chỉ biết làm mọi thứ vì con, không còn quan tâm đến nhau như thuở ban đầu, những điều này làm cho người chồng, người vợ cảm thấy không thỏa mãn được ước muốn của mình.
Người già thì luôn gặp những khó khăn về nhiều phương diện khác nhau trong sinh hoạt và nếp sống hằng ngày của họ như: việc ăn uống, đi đứng, làm việc, sức khỏe, bệnh tật, giảm trí nhớ…, tất cả mọi sinh hoạt đều bị trở ngại và trở nên khó khăn hơn vì sự già nua về thân thể và lão hóa về tinh thần.
Để sống, tồn tại được trong cuộc đời này, con người ta phải làm lụng để có được cái ăn, cái mặc. Đi làm để kiếm được đồng tiền đôi lúc cần phải dẹp qua sĩ diện vì nhập gia tùy tục, đi theo khuôn khổ của công ty thuê mướn. Có lúc, vì công ăn việc làm, người ta bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc đời dẫn đến mất nhân cách: ăn nhậu, chè chén say sưa, nịnh bợ, tranh giành quyền lực, ganh tị, hãm hại lẫn nhau…Nếu là nhà kinh doanh, nhiều khi người ta dùng mọi chiêu thức cạnh tranh, bất chấp thủ đoạn, không cần đạo đức, chẳng cần lương tâm miễn sao chiếm lĩnh thị trường, và sẵn sàng triệt hạ đối thủ.
Đó là những nghịch cảnh mà bất cứ người nào, dù già hay trẻ, dù sang giàu hay nghèo khó đều bị buộc phải đối diện với những khó khăn và trở ngại khi sống trong biển đời mênh mông vô tận với những cơn sóng đầy bạo lực và phức tạp.
Đau khổ lại là một thực tại khác của đời sống mà không ai trên thế gian này có thể tránh được trong thân phận làm người của mình. Theo quan niệm Phật giáo, thì sinh, lão, bệnh, tử là những cái khổ mà con người ai cũng phải trải qua. Khi bắt đầu lọt lòng mẹ, đứa bé đã cảm nhận được cái khổ của môi trường sinh sống không còn gống như trong dạ con người mẹ, nghĩa là sinh ra là khổ.
Vướng vào bệnh tật là đau khổ biết dường nào, nhất là với môi trường y tế như Việt Nam hiện nay. Bước vào bệnh viện là thấy rõ nhất nỗi khổ cực nhọc nhằn của bệnh nhân và thân nhân. Nơi đó, họ không chỉ đau đớn vì căn bệnh trong người mà còn đau đớn vì thái độ phục vụ không tốt của đội ngũ bác sĩ, y tá lúc nào cũng trong tình trạng quá tải. Còn nỗi khổ của người già là ăn không ngon, ngủ không yên, đi đứng không được thuận tiện, đi đâu cũng lo lắng, sợ hãi những bất trắc có thể xảy ra. Chết cũng là một cái khổ vì hầu hết người ta, thường chết với một tâm hồn không tỉnh thức, thế nên thường đau đớn về thể xác và hốt hoảng về tinh thần. Ngoài sinh lão bệnh tử, theo triết lý nhà Phật còn có những cái khổ:
Oán tắng hội khổ, nghĩa là sự khó chịu và khổ sở vì phải sống chung và đối diện với người mình không ưa thích, cái khổ do sự nóng giận bộc phát. Người ta thường nói “Ghét của nào trời trao của đó” là vậy, ghét nhau mà gặp nhau thì khổ lắm.
Cầu bất đắc khổ là nỗi khổ vì những mong cầu của bản thân không được như ý muốn. Với người trẻ có thể khổ vì tình duyên lận đận, con đường học hành, công danh trắc trở. Người đi làm thì thất vọng vì không được thăng chức, đồng lương không được như kỳ vọng để trang trải cuộc sống. Người già thì muốn con cháu quay quần nhưng mỗi đứa lại đi một nơi vì cuộc mưu sinh. Cha mẹ thì khổ vì con cái làm trái ý mình, không nghe những lời dạy bảo mà cha mẹ cho rằng sẽ mang lại điều tốt đẹp cho con cái…
Ai biệt ly khổ là sự khổ đau trước cảnh sinh ly tử biệt. Đó là sự đau khổ khi phải chia ly tình cảm giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, đồng nghiệp vì một lý do nào đó chẳng hạn như một người qua đời. Trong giới trẻ có thể là sự chia tay trong tình yêu đôi lứa, nhất là mối tình đầu tan vỡ dễ làm người ta đau khổi.
Ngũ ấm xí thạnh khổ: sự đau đớn và khổ sở khi bị dày vò vì sự xung đột, mâu thuẫn của thân ngũ ấm. Ngũ ấm là năm nhóm tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm: sắc là thân thể và các giác quan, thụ là cảm giác, tưởng là tri giác, hành là hoạt động tâm lý và thức là các dạng ý thức liên hệ đến các giác quan. Mang thân con người đã là khổ, bản chất cơ thể con người là không sạch sẽ, vì thế phải làm sạch cơ thể hằng ngày. Về mặt tư tưởng, con người luôn sống bằng cái tâm tham, sân, si, nghĩa là tham lam, sân hận, si mê, chính tư tưởng này làm cho con người tự dằn vặt mình mà sinh ra đau khổ.
Nguyên nhân dẫn đến nghịch cảnh và khổ đau là do sống bị lệ thuộc vào tâm tham, sân, si, bị lệ thuộc vào cảm xúc và luôn bị lệ thuộc vào những tình cảm mừng, giận, thương, yêu, ghét, muốn, được. Do con người sống về mặt tinh thần chỉ gói gọn trong 7 cảm giác này, nên nếu làm chủ được chúng thì sẽ hóa giải được nghịch cảnh và khổ đau.
Theo quan điểm của Phật giáo, cuộc đời vốn dĩ là khách quan vô tư (không khổ, không vui), thế nên muốn chinh phục những nghịch cảnh và đau khổ cuộc đời, cần phải phải biết tu tập Tam Học “Giới-Định-Tuệ”.
Giới là những chuẩn mực, quy tắc mà người ta nên giữ gìn để làm chủ được cuộc sống, là phương tiện làm tăng thêm nhân cách đạo đức của mỗi con người, làm nền tảng cho con người đi vào đời, đi vào cuộc sống phức tạp. Thế nhưng, giới không giống như những quy tắc hay những điều luật buột con người phải tuân theo như ở trường học, cơ quan, các tổ chức chính trị, xã hội… nó chỉ là những lời khuyên con người nên thực hành để có được sự an lạc, nghĩa là sự bình an, và niềm vui từ bên trong tâm hồn. Giới chỉ là những phương tiện tạm thời để giải thoát con người ra khỏi đau khổ và phiền não ở đời, và nó sẽ không còn hữu dụng nếu như con người đã thoát khỏi phiền não và khổ đau trong thân tâm.
Sự tu trì về giới đòi hỏi trải nghiệm qua từng giai đoạn trong một quá trình, lúc nào cũng trở về với chính mình, để ý từng hành động, cử chỉ, suy nghĩ, việc làm xem có đúng nhân cách đạo đức hay không và có nô lệ cho tham lam, sân hận, si mê hay không. Nó sẽ tạo nên nội lực, chính nội lực sẽ chinh phục ngoại cảnh, tiền bạc, địa vị, vật chất, sắc đẹp bên ngoài. Giới là nền tảng đầu tiên làm cho tâm hồn thanh tịnh, khi tâm thanh tịnh, sẽ thấy hết tất cả cảnh vật, tiếp nhận cảnh vật, nhưng không bị vật lôi cuốn mà làm chủ được nó. Khi nhận thức được như thế thì tâm định, thuần về giới thì tâm sẽ định. Định có nghĩa là đối diện với cảnh mà không bị lay động bởi trần cảnh và chinh phục ngoại cảnh. Bất cứ người nào sống đối diện với cuộc đời mà không bị ô nhiễm, không bị lay động, thì lúc đó tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì tuệ phát sinh. Tuệ khác với kiến thức và trí thức, sống bằng ý thức và hiểu biết thì vẫn còn đau khổ do tiếp nhận từ bên ngoài nhưng tuệ có được là do tâm con người có sự quân tập bên trong, tâm lắng đọng, tuệ phát sinh. Sống bằng tuệ thì không bị khổ đau và nghịch cảnh chi phối. Nói chung, giới, định, tuệ là hành trang để hóa giải được nghịch cảnh và khổ đau, là kim chỉ nam để làm chủ cuộc đời, để có được an lạc. Để làm được điều đó cần phải tu hành theo cách văn, tư, tu: văn là tâm phải tập trung, tư là gạn lọc những gì thích hợp cho mình và tu là sửa đổi con người mình.
Sau gần 2 tiếng đồng hồ nghe thuyết giảng, để đáp lại tấm lòng của diễn giả, cũng như nói lên tâm tình hấp thụ những kiến thức có được qua buổi thuyết trình, một nữ tu đã đại diện các tham dự viên nói lên lời cám ơn vị Đại Đức: “Có lẽ đây là lần đầu tiên những người Công Giáo nghe một Đại Đức Phật giáo thuyết pháp để hiểu được, thấy được cách đối diện với nghịch cảnh và khổ đau, cũng như tìm ra được phương cách giải quyết nghịch cảnh dưới sắc thái của tôn giáo bạn. Từ những điểm chung là tấm lòng yêu thương trải ra cho đồng loại của mình, cùng những điểm chung khác, đó là biết đối diện với nghịch cảnh và biết hoán cải, thăng hoa nghịch cảnh đó bằng văn tức là cùng lắng nghe tiếng từ trời cao dạy dỗ chúng ta những điều phải, bằng tư để suy nghĩ, suy niệm trong lòng, và tập là sửa đổi lại con người của mình. Từ đó có được tâm an lạc, thanh tịnh trong tâm hồn và có được tuệ sáng hơn để đem tình thương đến cho tất cả mọi người. Kính chúc thầy được an lạc trong tình thương của tất cả mọi người”.
Dưới nhãn quan của người Công Giáo, có thể nói đau khổ là một mầu nhiệm, đau khổ là một phần của cuộc sống, là một thực tại mà con người không thể thoát được. Nhưng cần phải biết rằng, đau khổ không xuất phát từ Thiên Chúa mà do chính con người lựa chọn, vì khi tạo dựng Thiên Chúa đã cho con người được sống dồi dào nhưng con người đã chọn tội lỗi, chọn sự chết để đáp trả Thiên Chúa và đau khổ chính là hậu quả của tội lỗi chính con người gây ra. Bản tính yếu đuối của con người không thể tự giải thoát được mình, tuy nhiên, Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người sống trong đau khổ, nhưng Ngài đã biến đau khổ thành phương tiện để cứu rỗi qua Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người.
Nói đến đau khổ, không ai có thể sánh bằng Chúa Giêsu, Ngài đã chịu nhiều khổ nạn cho đến chết trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng đau khổ để cứu rỗi, để giải thoát con người qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, chính vì thế đau khổ là một mầu nhiệm. Ơn cứu rỗi không chỉ giải thoát con người nơi cuộc sống đời sau mà còn đem lại niềm vui và bình an trong tâm hồn nơi trần thế này. Mẫu gương của không biết bao nhiêu vị thánh trong Giáo hội, nhất là các Thánh tử vì đạo đã nói lên điều đó, với cái nhìn nhân loại, họ có thể là những người đau khổ, bất hạnh về thể xác, tâm hồn nhưng thực sự họ luôn được bình an trong tâm hồn do đã chấp nhận vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Hãy chấp nhận đau khổ, nhìn nhận tích cực về đau khổ bằng đức tin để bước đi trên con đường thập giá và khổ đau theo Chúa Kitô để được nên thánh theo lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà đi theo Ta”.
Đại Đức Ts Thích Quang Thạch trình bày
John Bosco Nguyen Hoang Thuong ghi nhận