Những hiện tượng xấu đang lan tỏa trong gia đình và học đường, đang làm cho các bậc cha mẹ và những thầy cô, các nhà giáo dục phải lo âu và tìm ra phương hướng giải quyết, đó là nạn Bạo Lực Học Đường, nó đã biến trường học không còn là nơi an toàn cho con em và làm ảnh hưởng rất nhiều trong việc đào tạo nhân cách cho các em. Cụ thể ngày 09/04/2010 vừa qua một cuộc hội thảo chuyên đề “Phòng Chống Bạo Lực Trong Học Đường” do Sở GD-ĐT TP.HCM tổ chức đã đưa vấn đề nóng bỏng này lên “bàn mổ” để tìm ra nguyên nhân và giải pháp nhằm ngăn chặn hiện tượng này. Và hôm nay, 11/12/2010 tại Trung Tâm Mục Vụ, TGP Sài Gòn, chương trình Chuyên Đề Chiều Thứ Bảy đã tổ chức một buổi nói chuyện nhằm giúp cho các bậc phụ huynh và học sinh có những nhận thức đúng đắn và phương hướng giải quyết đóng góp tích cho hiện tượng này được giảm thiểu tối đa. Buổi nói chuyện đi xoay quanh trong tâm của vần đề thời sự: “BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG – NGUYÊN NHÂN & GIẢI PHÁP” do Đại đức Tiến sĩ Thích Nhật Từ trình bày. Buổi nói chuyện đã thu hút gần 200 khán giả tham dự.
Mở đầu Đại Đức Thích Nhật Từ chia sẻ bằng một câu chuyện của cậu bé tên là Kundun.
- Một hôm các cao đệ trên đường tìm kiếm hậu thân của đức Dalai Lama XIV thấy một đám trẻ em khoảng 4 đến 7 tuổi đang chơi đá dế, thì có một cậu bé khuôn mặt rất hiền từ không hòa với nhóm trẻ em đó, đã bước vào giữa tách nhóm ra làm 2 nhóm và bắt hai con dế tới một bụi rậm cách đó 20 mét thả hai chú dế đó xuống, với một lòng thương yêu trìu mến, mong rằng hai chú dế không còn gặp cảnh đấu đá do con người sắp xếp trong tương lai, các trẻ em khác rất bất mãn, nhưng do phong cách rất dễ thương của Kundun nên không xảy ra cuộc ẩu đả nào.
Qua câu chuyện trên ta thấy hành động của các trẻ em này có hai phong cách khác nhau. Chúng ta cũng thường nhìn thấy trong cuộc sống các cuộc mua vui của con người trên nỗi khổ đau trên các động vật, bằng các trò chơi như đá dế, có nơi thì đá gà, đấu bò, và nhiều hình thức trò chơi bạo lực khác. Nhưng không nghĩ rằng những cuộc vui chỉ kéo dài khoảng vài ba chục phút đó, nhưng nỗi khổ, niềm đau của các con vật được sử dụng để mua vui thì rất lớn kéo dài suốt cuộc đời. Kundun vì bản chất từ bi có sẵn không đồng tình cách chơi đó đã giúp cho bạn đồng lứa cùng chơi với mình không có những hình thức bạo động trong tương lai. Kundun chính là đức Dalai Lama hiện tại.
Các nhà tâm lý học ngày nay, liệt những các hành động bạo lực trên là bạo lực tâm lý. Phật học cho rằng đó là biểu hiện của lòng sân.
Lòng sân biểu hiện qua 3 hình thức: Tâm suy nghĩ, ngôn ngữ và hành động. Ba phương diện này có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, có những trường hợp do tác động bởi lời nói, tai nghe chướng, mắt nhìn thấy gai thì sự bất mãn trổi dậy, khó chịu, làm cho tâm chúng ta gợn sóng, mất bình an. Có người kềm chế được không thể hiện phản ứng trước những bạo động, bạo lực đối với người khác, nhưng cũng có người không vượt qua được cho nên có thể hiện bạo động tương tự. Người ta tát mình một cái thì mình tát lại “mắt đền mắt, răng đền răng” vốn được coi là công lý giang hồ, về phía Phật học cho rằng đó là những nỗi đau cho chính bản thân người đang vướng phải nó, nó cũng tác động một cách tiêu cực, bất hạnh cho những người mà ta ứng xử hành động sân.
Nguyên nhân tâm lý của bạo lực học đường ít được các nhà giáo dục, các nhà xã hội, các bậc cha mẹ quan tâm đúng mức, mỗi người có một phong cách sống khác nhau. Không ai kiểm soát được diễn biến tâm lý xảy ra hằng ngày với người đó. Do vậy không ai nghĩ đến việc cần ngăn chặn bạo lực học đường từ ngay các bạo lực từ đời sống nội tâm, có thể do việc tác động những nghịch cảnh bên ngoài, tác động bởi điều kiện không thuận lợi làm cho tâm con người xảy lên sóng gió cho chính mình. Nguyên nhân tâm lý bị xem thường đó lại là nguyên nhân chính.
Phật giáo cho rằng Tâm là đạo diễn của hành vi lời nói và việc làm. Khi sự bất mãn trên Tâm trỗi dậy, con người có khuynh hướng thể hiện qua lời nói, hoặc hành động cụ thể hoặc cả hai. Sự bực tức, bất mãn không hài lòng hoặc bị nói khích, làm cho người ứng xử không làm chủ được bản thân. Do vậy không nắm bắt và chuyển hóa nguyên nhân gốc rễ này thì dầu cho cha mẹ muốn con mình thoát khỏi cảnh ẩu đả trong học đường hay thoát khỏi cảnh thể hiện hành vi bạo lực với người khác thì khó làm cho tốt được.
Do vậy, việc nối kết đòi hỏi nhu cầu quan tâm của các bậc cha mẹ. Ít nhất cha mẹ cần phải nhận ra những biểu hiện tâm lý bất thường nơi con cái, làm tổn thương cho người khác thì cần phải nhắc nhở chúng và hướng dẫn con cái thực tập một số kỹ năng làm chủ dòng cảm xúc.
Hạnh phúc hay khổ đau trong Phật giáo đều do kỹ năng nắm vững hay thất bại trước việc làm chủ cảm xúc bản thân. Phật giáo chia thành hạnh phúc thành hai nhóm: Hạnh phúc giác quan và hạnh phúc thật sự.
- Hạnh phúc giác quan bao giờ cũng mang tính điều kiện và sự tồn tại của nó khoảng chừng 10 giây đến 30 giây, như một phản ứng trên bộ não, không có lâu, phần lớn chúng ta lại đê mê như là một thói quen đối với hạnh phúc giác quan mang lại.
- Hạnh phúc thật sự có mặt do ta biết làm chủ đời sống nội tâm, sống rất thật sâu lắng, thấy rõ được đường đi nước bước của dòng tình cảm, thái độ, cảm xúc, nhận thức, từ đó khi có những nghịch cảnh, chướng ngại diễn ra ta có thể làm chủ được mình, việc làm chủ đó dần dà vượt qua được những trở ngại. không đưa đến những thương tổn nào của cảm xúc và hành vi.
NHỮNG NGUYÊN NHÂN
1. Tiêu thụ phim ảnh bạo lực
Ảnh hưởng tiêu cực của phim ảnh bạo lực trong thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, diễn ra từng ngày từng giờ với chúng ta, là điều không thể phủ định. Mỗi khi chúng ta xem một thông tin bạo lực trên TV, đài phát thanh, báo mạng hay trên báo giấy, tâm lý chúng ta thường trỗi dậy một trong hai khuynh hướng thông thường, hoặc là đồng tình, bênh vực hoặc là kháng cự, chống đối với các nhân vật, hay các tình huống trong nội dung mà ta quan sát.
Khi xem một bộ phim chiến tranh ta có khuynh hướng thiên về phía chánh nghĩa, tình thương, mối quan tâm, sự đồng cảm dễ dàng được thiết lập với những nhân vật mình bắt gặp. Đồng thời lúc ấy ta cũng trỗi dậy một cảm xúc khác, đó là kháng cự, hận thù, căm ghét đối với phía được cho là phi chánh nghĩa, vốn đó là một bộ phim dựng lại từ biến cố lịch sử, thậm chí có khi tình huống đó lại là hư cấu, phản ứng của chúng ta vẫn đính kèm theo những thái độ, thuận bên này và nghịch bên kia.
Ảnh hưởng của phim ảnh tác động vào kho tàng tâm thức chúng ta từng ngày từng giờ. Nếu cha mẹ không theo dõi kỹ lưỡng các biểu hiện của con em thay đổi về hành vi, hoặc để chúng quá tự do trong việc giải trí, phim ảnh đến các rạp xinê mà không biết các nội dung mà các em xem là cái gì, thì con em chúng ta sẽ tích nạp hướng tăng dần các hạt giống hành vi bạo lực. Khi vào lớp học chỉ cần một bất mãn nho nhỏ, bắt gặp một khiêu khích của bạn nào đó, hoặc một câu nói tức khí thôi các em sẽ thể hiện như là một bản sao 50%, 70% thậm chí 100% từ nhưng hình ảnh mà các em đã được thâu nạp qua phim ảnh, sách báo, qua các phương tiện truyền thông.
Tiêu thụ phim ảnh bạo động theo kinh Phật thuộc dạng bạo lực thức thực. Nghĩa là chúng ta tiêu thụ bằng tâm thức, khi ta xem một bộ phim là mình đang tiêu thụ bộ phim đó vào trong cơ thể, và nó diễn ra cơ chế hai chiều, ta nghĩ rằng mình đang tiêu thụ bộ phim, đồng thời bộ phim cũng đang tiêu thụ tâm lý chúng ta. Do vậy dòng cảm xúc của con người trỗi dậy rất rõ ràng, vui buồn, hưng phấn, hay chán nản, tùy theo nội dung một phim tác động đến chúng ta. Những thực phẩm đó đã được chúng ta tình nguyện đưa vào bằng cách trả tiền, thông qua các dịch vụ và phương tiện tiêu thụ. Thiếu sự đắn đo, chọn lựa trong việc tiêu thụ thức thực, chúng ta sẽ trở thành nạn nhân của quyết định đó. Đến lúc nào đó chúng sẽ là chủ nhân tiêu thụ lại chúng ta, và chúng ta phản ứng hành động bạo lực đó một cách tự nhiên mà không kiểm soát được.
Có người bình thường bản tính rất điềm tĩnh, vui vẻ, dịu ngọt do tính cách xuề xòa, nhưng khi tiêu thụ các loại phim ảnh bạo lực, các hình thức võ đài, các loại võ thuật khác nhau nhiều, thì hành vi bạo lực có sẵn sẽ được tăng trưởng ngày càng lớn lên. Đến một ngày nào đó ta cũng có các hành vi bạo lực như thế. Đây cũng là điều phần lớn các bậc phụ huynh và nhà trường không quan tâm.
2. Các trò chơi điện tử
Một nguyên nhân khác dẫn đến việc tiêu thụ thức thực theo Phật giáo là nghiện các trò chơi điện tử mang tính bạo lực. Ngày nay có khuynh hướng mua vui các trò chơi điện tử tại nhà hoặc trực tiếp từ Internet. Việc tiêu thụ các trò chơi bạo lực này đó đã trở nên nguy hại cho hạnh phúc hiện tại và tương lai sự nghiệp của các em và gia đình. Khi một em mải mê từ thái độ tâm lý muốn tìm hiểu cái gì mình chưa biết, một lý giải như là một phương tiện giúp cho mình thông minh hơn, nhanh nhẹn hơn trong việc ứng xử, các em dần dà trở thành một con nghiện.
Nhiều bậc cha mẹ suy nghĩ rất đơn giản, thương con là có trách nhiệm nuôi con, đồng nghĩa là chu cấp cho con về vật chất, sự sống, học phí, tiền bạc chi tiêu như thế là đủ, mà không quan tâm về nhân cách, diễn biến tâm lý, hành động của các em. Cho tiền các em quá nhiều, mua laptop mà không sử dụng nhu cầu cho việc học tập, điều đó lại trở thành mối đe dọa, mà các em đã dần dà được các phương tiện trợ giúp, tiêu thụ bạo lực qua các trò chơi bạo lực online ở nhà.
Từ lớp 10 trở lên, nhu cầu nghiên cứu bắt đầu được đặt ra. Trẻ em có thói quen bắt chước, cha mẹ mua lapptop, phim ảnh cho các em sử dụng mà không giám sát, cho nên phần lớn các em đã trở thành nghiện game online mức độ báo động. Ở VN hiện nay có khoảng 30 triệu người sử dụng Internet, giới trẻ chiếm trên 70% trong số đó và mức độ nghiện báo động của giới trẻ nghiện game online không phải là nhỏ. Điều này đã làm cho rất nhiều gia đình mất hạnh phúc. Cách ứng xử trước nỗi khổ, niềm đau đó đã làm cho nhiều cha mẹ bất hòa, ảnh hưởng trực tiếp đến thảm cảnh gia đình.
Hiện nay Ấn độ và Trung Quốc là hai quốc gia đi đầu trong việc thành lập các trung tâm cai nghiện game online. Các em thường được cha mẹ gởi đến, thời gian học từ 1 tháng đến 6 tháng tùy theo mức độ nghiện.
Theo nhận định chung, em nào có thói quen sử dụng các trò chơi bạo lực từ 3 tiếng đồng hồ/một ngày thì được coi là nghiện, em đó cần được đưa đến trung tâm để điều trị. Có em sử dụng từ 6 tiếng đến 12 tiếng/một ngày, thì mức độ thay đổi về tâm sinh lý diễn ra khá nguy hại, phần lớn các em có biểu hiện như: béo phì, trầm cảm, dấu hiệu tâm thần nặng nhẹ khác nhau. Nếu cha mẹ không để ý và không hề quan tâm đến thì có thể trong tương lai cha mẹ đó sẽ mất đi đứa con của mình, vì các em đó không còn bình thường nữa. Cho nên sự nỗ lực giám sát các em từ phía cha mẹ là cách giúp cho các em vượt qua những khó khăn.
3. Bản sao từ lối sống của người thân
Những tác động trực tiếp từ cách sống của cha mẹ và người thân trong gia đình đối với con cái là điều không thể phủ định. Cha mẹ thường được xem là người mẫu nhân cách về đạo đức cho con cái trong gia đình. Nếu cha mẹ ứng xử hài hòa, tôn trọng lẫn nhau, tránh các hình thức gia trưởng, không trọng nam khinh nữ, thì con cái sẽ trực tiếp tiêu thụ phong cách đạo đức đó. Về sau khi lớn lên, con cái có nhân cách rất chuẩn mực, thoát khỏi các trở ngại về hành vi bạo lực nơi học đường và xã hội sau này.
Trong thực tế không phải gia đình nào cũng may mắn có người cha, người mẹ có phong cách hài hòa, hiền hậu, kiên nhẫn vượt qua những trở ngại với nhau. Phần lớn nhiều gia đình có hành vi bạo lực từ người chồng, người vợ và có khi từ cả hai. Nguyên nhân bạo lực có trăm kiểu cách. Khi bạo lực gia đình có mặt từ người lớn, các em ngại tiếp xúc với họ và có cảm giác bị ngạt thở ngay chính trong ngôi nhà của mình, theo đó, niềm tôn kính cha mẹ nơi các em mất dần. Đến lúc nào đó không được chuyển hóa, qua những khó khăn được tích tụ theo năm tháng trong tâm, không được quan tâm đến, các em trở thành bản sao của cha mẹ mình, vì vậy sẽ là mối nguy hại đến nhân cách của các em.
Ở VN chưa có các cuộc nghiên cứu về tác động bạo lực gia đình từ cha mẹ hoặc người thân đối với trẻ em dẫn đến bạo lực học đường hoặc xã hội ở lứa tuổi vị thành niên. Việc nghiên cứu mối liên hệ giữa bạo lực gia đình và bạo lực học đường là một nhu cầu rất là cần thiết. Chắc chắn nó có mối quan hệ kéo theo rất lớn. Cha mẹ cần phải gương mẫu, biểu hiện nhân cách chửng chạc. Khi có mối bất hòa với nhau, đừng lớn tiếng cãi vã trước mặt các em. Khi có mặt con em ta lấy cớ làm hòa với nhau. Làm hòa là cớ hoãn binh để cho sự phẩn uất của hai bên giảm thiểu đến mức tối đa, nhân cơ hội đó làm hòa thật sự để gia đình không bị thương tổn. Con em ngày nay có thể nhìn thấy một cách rất tinh tế từ biểu hiện ánh mắt, sắc diện, cử chỉ tay chân, cách thức cha mẹ nói chuyện, thậm chí ngữ điệu. Chúng dễ nhận biết cha mẹ mình đang có những bất hòa, dẫn đến nhiều ám ảnh vè sau. Vì hạnh phúc của con em, cha mẹ cố gắng vượt qua không để cho chúng chứng kiến. Những ứng xử mang tính tế nhị có thể trở thành bài học quan trọng, giúp cho chúng khắc phục được nguyên nhân bạo lực học đường và xã hội trong tương lai. Cha mẹ có lối sống hài hoà có thể giúp cho con em vượt qua được các thói quen nóng giận, cãi vã, tranh chấp và bạo lực.
Nhiều cha mẹ nghĩ rằng mình là chủ nhân của ngôi nhà mặc sức quát tháo khi có điều gì không hài lòng với con của mình. Vì tôn kính cha mẹ nhiều con em chịu đựng, một số tỏ ra bất hiếu làm cho cha mẹ tức giận hơn, và cuộc đấu khẩu với cha mẹ, thậm chí có trường hợp con cái đánh lại cha mẹ sẽ diễn ra. Về phương diện tâm lý học, hành vi ngỗ nghịch của những đứa con bất hiếu hoặc bất hiếu qua ngôn ngữ đối với cha mẹ cũng là biểu hiện bình thường của bạo lực gia đình. Ta không loại trừ bất cứ khả năng nào có thể xảy ra. Tốt nhất là phòng ngừa hành vi ngỗ nghịch hơn để nó xuất hiện rồi mới nỗ lực ngăn chận. Do đó, việc cha mẹ làm điển mẫu về nhân cách sẽ là yếu tố giúp cho con cái không vướng vào bạo lực học đường về sau.
4. Tiêu thụ rượu bia và chất gây nghiện
Việc tiêu thụ các loại độc tố có chất gây say như rượu bia, ma túy tổng hợp, có khả năng dẫn đến các hành vi bạo lực học đường ở giới trẻ. Phật giáo nhận thấy rất rõ tính tiềm tàng rất nguy hiểm của các loại độc tố này đối với nhân cách của con người và và hòa bình thế giới, ít nhất nó là nguyên nhân kéo theo một cách gián tiếp. Một người không thể làm chủ hành vi của mình được, ngay sau khi đưa các loại chất gây say vào trong cơ thể như là một sự mua vui. Phần lớn người tiêu thụ chất gây say sẽ không thể kiểm soát hành vi và lời nói, nên dễ gây hấn, đánh đập, giết người v..v…
Tôi (ĐĐ Thích Nhật từ) có nhiều cơ hội chia sẻ với các phạm nhân hình sự bị phạt tù từ 20 năm tù đến chung thân. Sau khi chia sẻ tôi có cơ hội giao lưu tiếp xúc với họ. Có những người nông dân chất phát hiền lành, suốt đời gương mẫu, nhưng do uống rượu nhân ngày lễ giỗ cha mẹ hoặc đám cưới của người thân bị người khác khích bác, chịu không nổi, phản ứng tự vệ trong cuộc đánh nhau, cầm dao đâm, cuối cùng người chết kẻ đi tù.
Rõ ràng việc uống rượu làm cho con người mất đi nhân cách là chuyện chúng ta không thể phủ nhận. Phần lớn xã hội không quan tâm đến các nguyên nhân gián tiếp nhưng vô cùng nguy hiểm này. Mặt khác các nhà sản xuất rượu bia, các loại độc tố gây say thường đóng thuế cho chính phủ của họ rất cao, cho nên các quốc gia không thấy đó là mối đe dọa nhân cách và gián tiếp tạo ra các nguyên nhân bạo lực học đường ở mức độ trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều lãnh vực khác nhau.
Tại Ấn độ, một đất nước có nền tâm linh tôn giáo phong phú nhất trên hành tinh hiện nay, và có nhiều tôn giáo nhất, nạn thất nghiệp cũng nhất nhì toàn cầu, mù chữ và nghèo trên 70%, nếu không có những phương pháp ngăn chặn thì có lẽ xã hội đó là nơi có những khổ đau nhiều nhất trong giới trẻ. Rất may chính quyền Ấn độ có những phương pháp ngăn chặn bạo lực gia đình, bạo lực học đường, bằng cách cấm không cho buôn bán rượu bia, thuốc lá ở nơi công cộng vào giờ hành chánh. Rượu bia chỉ được bán từ lúc 6 giờ đến 8 giờ, vào mùa đông thì sớm hơn từ 5 giờ đến 7 giờ. Khi mua thì người tiêu thụ mang về nhà uống, không được uống tại quán. Chỉ có một số quán Bar với điều kiện đặc biệt có cư dân ngoại quốc sinh sống mới được cấp giấy phép bán rượu và uống tại quán. Nền văn hóa Ấn độ có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân. Người ta mặc định với nhau, người nào tiêu thụ rượu bia là thuộc về giai cấp thấp, tự làm giảm nhân cách và không được đánh giá cao về nhận thức. Giới trí thức và giới thượng lưu nếu vướng vào nghiệp tiêu thụ rượu bia này thì phải lén lút ở nhà chứ không dám tiêu thụ nơi công cộng. Tại các trường đại học, trung học và tiểu học ở Ấn độ hiếm khi thấy cảnh huống thầy giáo hoặc học sinh hút thuốc trong trường hoặc ngoài đường phố. Chính nhờ nền văn hóa khắt khe đó, người ta đã ngăn cản được những tệ nạn xã hội do các loại độc tố gây say tạo ra, nhờ đó, giới trẻ ít có các hành vi bạo lực học đường hơn các quốc gia khác.
Ở VN chưa có những qui định khắt khe ngăn cấm rượu bia. Các quán rượu bia ở VN được xem là nhiều nhất nhì thế giới tính theo tỷ lệ dân số và mật độ dân cư. Điều đó đe dọa hạnh phúc của con người chứ không chỉ riêng là thảm trạng bạo lực học đường. Nếu cha mẹ không quan tâm đến việc tiêu thụ của con em, dễ dãi cho chúng hút thuốc, uống rượu bia, sử dụng các chất ma túy tổng hợp, thì việc thể hiện cái “tôi” do sự phẫn nộ gây ra, có thể dẫn đến những hành động đánh lộn, thanh toán, giết người, có thể xảy ra với bất cứ ai, ở đâu và bất cứ lúc nào.
Theo đạo Phật việc uống rượu vi phạm vào điều đạo đức thứ 5, mặc dầu nó không bị luật pháp nào cấm. Biến đổi nhân cách và tệ nạn xã hội được xem là tiềm tàng từ rượu gây ra là rất lớn. Khi bị say xỉn, con người thay đổi nhân cách, cảm xúc và dễ gây sự với người khác. Đức Phật khuyên các tín đồ của Ngài từ bỏ bằng sự tự nguyện các phương tiện uống rượu. Về phương diện đạo đức học, đức Phật còn liệt việc sản xuất rượu bia và các chất gây say khác và những loại ma túy tổng hợp vào nghề “tà”. Là phật tử thì không được sản xuất, buôn bán, tiêu thụ và không khuyến khích ai vướng vào nghiệp này.
Tiêu thụ rượu và ma tuý là một trong sáu loại nghề nghiệp mà người Phật tử phải tránh. Năm nghề còn lại là:
- Sản xuất mua bán vũ khí, dẫn đến giết người hàng loạt.
- Sản xuất các loại độc dược, dẫn đến các hậu quả tiêu cực đối với sự sống.
- Đường dây buôn bán nô lệ, chà đạp nhân phẩm con người.
- Nghề buôn hương bán phấn làm cho con người chỉ biết hưởng thụ, mất trách nhiệm với gia đình.
- Nghề đồ tể, giết các loại gia súc khác nhau.
Đạo Phật có những qui định về đời sống đạo đức khác rất nhiều với các tôn giáo. Việc uống rượu và sản xuất rượu, sử dụng các chất gây say, tàng trữ mua bán các thứ đó được xem là vi phạm đạo đức của Phật giáo.
5. Thiếu sự quan tâm của gia đình và nhà trường
Nguyên nhân khác của bạo lực đó là sự thiếu giáo dục chuẩn mực của gia đình và sự thiếu quan tâm của nhà trường. Hai nguyên nhân này đã được báo chí và xã hội đang quan tâm thảo luận rất là nhiều, qui mọi trách nhiệm cho nhà trường và gia đình. Chúng ta đang gióng lên những hồi chuông, ý thức xã hội về trách nhiệm gia đình và nhà trường đối với các hành vi bạo lực học đường, nhằm giúp cho giới trẻ chuyển hoá được những hành vi bạo lực đó.
Nhà trường ngày nay tại VN và nhiều quốc gia trên thế giới hầu như không có môn học nào về kỹ năng làm chủ cái “tâm”, vốn được xem là kiến trúc sư của hành vi. Tâm sân sẽ tạo ra hành vi bạo lực học đường và gia đình. Hiện nay, nhà trường giống như các cơ quan khác, chỉ có kỷ luật và khen thưởng. Khen thưởng những ai có công, đóng góp nhiều cho đơn vị đó và kỷ luật những ai có hành vi trái với phép tắc được đặt ra, nặng hay nhẹ tùy theo tình huống. Theo Phật giáo, đó chỉ là cách ngăn chặn, thông qua sự trừng phạt, dấy lên sự sợ hãi để các em tránh vi phạm. Nếu ta không có những bài học về đạo đức giúp cho các em vượt qua những khó khăn khi những bạo lực trỗi dậy trong tâm, các em sẽ không biết kỹ năng vượt lên như thế nào, khi tình huống ngang trái xảy ra thì các em lại tiếp tục trở thành nạn nhân của chính mình, đồng thời gây khổ đau cho bạn đồng lứa. Chữa lửa phải chữa từ nguyên nhân chứ không phải chữa khi nó xảy ra rồi, thì kết quả mới đạt được ở mức độ cao.
Nhiều cha mẹ chỉ lo làm giàu không dành thời gian cho gia đình, không có bữa cơm chung, không có giờ sinh hoạt chung, tư vấn cho con cái như một người thầy, như một người bạn. Chỉ lo chu cấp về tiền bạc thôi thì không thể nào đảm bảo sự trưởng thành về nhân cách cho con em mình. Thầy giáo dù có trách nhiệm thế nào đi nữa thì cũng không đủ thời gian giám sát vài chục em trong cùng một lớp. Cho nên cha mẹ nào có thói quen đặt tất cả trách nhiệm cho nhà trường là một sự sai lầm và khó tránh khỏi những tình huống đáng buồn, khi con mình có những hành vi bạo lực trong nhà trường và có khi cả trong gia đình nữa.
NHỮNG GIẢI PHÁP
1. Giải pháp trì hoãn phản ứng
Trì hoãn chỉ là giải pháp tạm thời. Khi ta có cảm giác bất an, sợ hãi, buồn phiền, bất mãn, bực dọc, thông thường ta có thói quen phóng xả ra. Nền tâm lý học phương Tây cho phép dựng nên hình nộm để ta đâm chém, đốt, chặt, chửi bới, phỉ nhổ, chà đạp v. v mà không vi phạm luật vì ở đây không có người thật bị xỉ nhục và thương tổn. Ứng xử sân hận này chỉ có thể giải quyết tạm thời, làm cho tâm giận được nguôi ngoai. Nhưng đâu ngờ rằng, cứ mỗi khi xả giận như thế thì hạt giống bạo lực lại thêm môt lần nữa được gieo trồng một cách chính qui, đến một lúc nào đó sự đè nén thay thế đối tượng người thật thành hình tượng nộm không còn mức cho phép thì lúc đó bạo lực được thể hiện ra với mức tàn phá rất lớn.
Đạo Phật không khích lệ phương pháp thay thế đó mà dạy chúng ta nghệ thuật trì hoãn có chánh niệm. Thí dụ, một bạn học sinh cùng lớp nói nặng lời bằng cách văng tục với một bạn khác. Bạn này tức lắm, không hài lòng có thể đánh nhau. Nghệ thuật trì hoãn dạy chúng ta là hít thở thật sâu, mỗi một đơn vị hít thở dài khoảng từ 8 đến 10 giây tùy theo từng người, đừng đè nén nó. Và hít một hơi thật sâu vào bên trong, khi cuối sức chịu đựng, ta dừng lại từng hai giây, để cho thanh khí từ bên ngoài đi vào bên trong được giữ và vận hành trong toàn thân ta, làm cho máu được tươi nhuận, sự trao đổi chất được tốt, nơ-ron thần kinh được làm mới; sau đó ta thở ra một hơi thở nhẹ nhàng sâu lắng dài bằng chiều dài hơi thở hít vào. Trong khi hít thở ta quán niệm: “Nỗi khổ niềm đau không phải là tôi, tôi không được nhảy vào nỗi khổ niềm đau này”. Đau khổ là từ kép, đau thuộc về thân, khổ thuộc về tâm.
Trong tình huống bị người khác đánh thương tật tạm thời hoặc vĩnh viễn, ta vẫn phải tự quán niệm như vậy để ta không làm thay thế chức năng của luật, nhất là luật giang hồ. Như vậy lỗi chỉ nằm ở một người, người còn lại thoát khỏi cái lỗi phản ứng từ tâm sân. Nhờ đó, nỗi đau trong tâm dần dần được phóng thích đi và ta thoát ra khỏi nó một cách dễ dàng.
Phương pháp trì hoãn dù có giá trị tạm thời nhưng rất cần thiết. Để trì hoãn ta cần thoát ra khỏi không gian nơi mà nỗi đau, hay những bất mãn xuất hiện. Thoát khỏi không gian đó thì tự động ta được thay thế bằng một không gian khác. Trì hoãn là không bạo động để những nỗi đau, bất mãn đó không có cơ hội trỗi dậy, để ta không bị cuốn hút vào tình huống hận thù, như thế là ta đang tự cứu chính mình.
2. Quán vô ngã
Vô ngã có nghĩa đen là “không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi, không phải là sở hữu của tôi.” Đó là 3 mệnh đề, có giá trị rất lớn, giúp chúng ta vượt qua những dòng cảm xúc khổ đau cho chính mình hay những người thân. Nỗi đau thường gắn kết với thân thể và tâm lý. Phật học chia: “đau thuộc về thân, khổ thuộc về tâm”. Tâm gồm 4 phương diện: “cảm xúc, ý niệm, tâm tư, nhận thức”. Phần lớn khi bị khổ có người qui cả 4 niềm đau này về mình, nên nỗi khổ niềm đau đó trở nên lớn hơn, vì con người có khuynh hướng cường điệu hóa trên sự tưởng tượng.
Ví dụ: Khi bị đối xử bất công, bị đánh đập, nỗi bất mãn trỗi dậy trong ta, rồi tự hỏi tại sao những nỗi bất hạnh đổ trút trên đầu tôi, tôi là kẻ bất hạnh nhất trên cuộc đời này. Tuy bất hạnh thật nhưng ta không phải là bất hạnh nhất, và bất hạnh đó không có nghĩa là ta mất tất cả những hạnh phúc còn lại. Theo Đức Phật, khi còn khỏe, còn hơi thở, còn cơ hội sống, còn làm được điều tốt thì ta vẫn là người có ý nghĩa, có giá trị và hạnh phúc rồi. Đừng đánh đồng nỗi khổ niềm đau nào đó với tất cả bất hạnh của bản thân. Tính cường điệu hóa là dòng cảm xúc được tăng trưởng, giãn nở mà vốn nó trên thực tế không nhiều đến thế.
Luật có cán cân công bằng, hãy để cho luật làm vai trò trừng phạt kẻ xấu. Với tư cách nạn nhân, ta không nên làm thế chức năng của luật và toà án.
Ví dụ, một người bị bắn 1 mũi tên từ phía sau, ngã quị, đau nhức, cơn sân trỗi dậy mãnh liệt. Thông thường dòng cảm xúc của nhiều nạn nhân là muốn trả thù, tìm xem ai là kẻ chủ mưu, ai là kẻ thực hiện, ai là kẻ đồng lõa, và nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm trả thù để giải quyết nỗi khổ niềm đau này. Theo các phim võ công Trung Quốc, sự trả thù trong giang hồ như thế là anh hùng, nhưng theo Phật giáo đó là sự nguy hiểm, vì nạn nhân đang làm kiêm nhiệm chức năng của luật và thẩm phán.
Đức Phật dạy:
- Thay vì ta giận dữ, truy tìm đâu là người hại mình để trả đũa, cách tốt nhất là ta bẻ gãy mũi tên và rút mũi tên ra một cách an toàn.
- Dùng các phương tiện y khoa hoặc trợ giúp y khoa nếu có để chữa lành vết thương.
- Nếu không thực hiện như thế thì đừng mang trong tâm niềm oán hận trả thù. Dù công lý không được thực hiện do không đủ bằng chứng hoặc được bao che thì ta vẫn phải tin vào công lý của nhân quả, nó sẽ diễn ra trong vài năm, vài chục năm, thậm chí là kiếp sau. Theo toà án nhân quả, kẻ làm xấu, làm ác sẽ gánh lấy hậu quả khổ đau. Như thế là ta không đánh đồng nỗi đau đó với chính mình, ta không xem kẻ chủ mưu, kẻ tham gia là kẻ thù của ta, cho nên lòng sân vốn gây ra các loại bạo lực không có cơ hội phát triển.
Để vượt qua các loại bạo lực học đường nơi các trẻ em và các loại bạo lực gia đình từ người lớn, thực tập vô ngã sẽ giúp ta sống “hiểu và thương”, nhờ đó, được hạnh phúc.
Thái độ hữu ngã thường lấy cái tôi làm trọng tâm. Khi một người đang ngủ say trên chiếc thuyền, bỗng dưng có một chiếc thuyền khác đâm sầm vào làm anh ta mất giấc ngủ. Phản ứng của anh ta là ngồi dậy chửi đổng, nhảy qua chiếc thuyền kia tìm thủ phạm để chửi bới hoặc đánh nhau. Nhưng khi có mặt trên chiếc thuyền kia, lục soát toàn bộ không tìm thấy ai cả, anh ta trở về thuyền mình và ngủ tiếp. Câu chuyện cho thấy rằng khi ta thấy không có kẻ chủ mưu, không có người thực hiện tạo ra nỗi khổ niềm đau trên ta, thì ta dễ dàng tha thứ, bỏ qua.
Thỉnh thoảng trong cuộc đời ta có loại ứng xử vô ngã như thế mà ta không để ý đến, đồng thời cũng không thấy hết các giá trị tích cực của nó, để áp dụng trong những tình huống bị gây hấn bị kiếm chuyện. Nếu các em học sinh được hướng dẫn từ nhỏ những phương pháp như vậy, thì các loại bạo lực học đường ít xảy ra.
3. Thay thế đối tượng trực tiếp
Bằng cách thay đổi đối tượng trong ta, ta bớt đi những bực tức, cau có. Việc thay thế đối tượng có thể thực hiện bằng nhiều cách, tùy theo tâm lý của từng người. Áp dụng đúng đối tượng thay thế sẽ giúp cho người đó đạt được thành công như mong đợi.
Trong phật giáo có Phật Bồ tát Quan Thế Âm, vị Bồ Tát Đại Từ Đại Bi lắng nghe nỗi khổ niềm đau của con người. Là phật tử theo truyền thống Đại Thừa không ai không biết vị Bồ Tát này. Khi bị khổ đau, ta nói: “Con kính lạy Đức Bồ Tát Quan Thế Âm, vị Bồ Tát tình thương, con quay về nương tựa Ngài”, thì lúc đó tâm chúng ta không thấy bị thương tổn; trái lại, ta thấy cảm thương người gây hấn vì người đó đang sống trong vô minh, sân hận, bất hạnh và gây nỗi khổ cho chính họ và người khác trong đó có ta. Quán chiếu này giúp ta thay thế tâm trạng căm hận bằng tâm từ bi.
Là người Công giáo, đương sự có thể nghĩ đến Đức Mẹ Maria hay một vị thánh nào đó. Mỗi khi nhắc đến hình ảnh của vị đó, ta liên tưởng một người cao thượng, tha thứ, bao dung… thì ta không xem người gây lỗi kia là kẻ thù mình.
Theo Đức Phật: “Con người không phải là kẻ thù của con người”. Sân hận và si mê là kẻ thù chung của nhân loại. Nếu cần phải làm một cuộc thánh chiến thì theo Phật giáo tất cả nhân loại chúng ta phải nối kết lại chống lại các kẻ thù tham sân si đó, vì nó có mặt chỗ nào thì hạnh phúc, hòa bình bị đe dọa chỗ đó. Việc quán tưởng đến những hình ảnh cao thượng có khả năng chuyển hóa các hành vi bạo lực, và giúp cho ta giải phóng được nỗi đau trong tâm. Biết quán tưởng những hình ảnh tích cực, mỗi khi nỗi đau nào đó xuất hiện, ta dễ dàng quên đi nỗi đau bằng hiểu biết, bao dung và tha thứ.
Trong các quan hệ dân sự, các tổ chức xã hội đều có nội qui. Khi ai đó có lỗi nên báo cấp trên, tuỳ theo tình huống mà áp dụng nội qui xử phạt những người gây lỗi. Là nạn nhân, ta không làm thay thế chức năng của luật và tổ chức.
Trong Phật giáo có câu:
Một kẻ cọc cằn, thêm đứa nữa
Thành hai đứa cọc cũng như nhau.
Vì thế nên ta phải nhịn người
Dầu ai mắng chửi vẫn vui tươi
Mặc ai cố tình, toan gây sự
Vững dạ an vui nở nụ cười.
4. Thực tập thiền
Thiền làm cho người thực tập trở nên điềm tĩnh trước những thăng trầm của cuộc đời. Dù thành công hay thất bại, người tập thiền không bị cuốn hút theo cảm xúc và những biến thiên của cuộc đời. Thực tập thiền trong Phật giáo có 4 đối tượng: thân thể, cảm xúc, tâm và những biểu hiện trong tâm.
Đối với thân thể: Ta thấy rõ đó là từ sự phối hợp của tinh cha, trứng mẹ, có mẫu số chung về nghiệp trong quan hệ họ tộc mà mình sinh ra. Thân thể này được cấu trúc gồm 36 yếu tố, xương tóc rằng, móng v...v... nó không phải là cái gì đó vĩnh hằng. Cái gì được cấu tạo mang tính tổ hợp, cái đó mang tính điều kiện, cái gì mang tính điều kiện cái đó bị sức vô thường chi phối, cái gì bị sức vô thường chi phối cái đó bị tấn công. Do vậy, khổ đau có thể trỗi dậy trong tâm chúng ta, bất cứ khi nào và ở đâu, từ phía chủ quan hay khách quan. Nhờ quán chiếu, ta thấy điều đó là một hiện thực. Thấy như vậy ta không nô lệ cho nỗi khổ đau của chúng ta, ta không cường điệu hóa nỗi đau. Hít thở thật sâu, nhẹ nhàng, thư thái ta thoát ra khỏi các hệ lụy trên thân thể này.
Quán niệm cảm xúc: Cảm xúc bao gồm hạnh phúc, khổ đau, sầu bi, trung tính và cảm xúc thanh tịnh sâu lắng. Tùy theo thói quen và mức độ thực tập mà ta có, hoặc sống với một trong năm dòng cảm xúc đó. Khi một dòng cảm xúc sân hận xuất hiện có biểu hiện bạo lực trong tâm, hãy vẫy tay chào với nó mà hãy trở về cảm xúc thanh tịnh. Hít thở bình an, hạnh phúc trong tâm, quán niệm trong tâm như thế ta sẽ giúp ta bỏ qua những người đang kiếm chuyện với mình.
Quán niệm về tâm: Tâm gồm các cặp phạm trù: tâm thiện, tâm ác, tâm tích cực, tâm tiêu cực, tâm bạo lực, tâm từ bi, tâm có hiếu, tâm bất hiếu v..v..... có hằng trăm cặp phạm trù tâm lý của con người. Ta cần thấy rõ cái tâm nào trỗi dậy, ta phải ghi nhận, nếu là tâm tích cực thì ta theo nó, nếu là tâm tiêu cực thì ta vẫy ta chào nó. Không nên tạo ra áp lực đè nén, ức chế, vì như thế nó sẽ bùng phát mạnh hơn trong tương lai.
Ý niệm trong tâm: Ý niệm gồm nhóm đối tượng chính: Nhóm đối tượng quá khứ, nhóm đối tượng tương lai và nhóm đối tượng hiện tại. Phần lớn chúng ta bị kí ức kéo về quá khứ, hoặc sự mộng tưởng kéo ta về tương lai và theo Đức Phật, ai không sống theo giây phút hiện tại bằng chánh niệm, nghĩa là thấy rõ mình và làm chủ được mình, thì người đó không có hạnh phúc đích thực.
Ai sống kí ức quá khứ thì người đó không có khả năng hạnh phúc trong hiện tại, vì kí ức quá khứ thường trỗi dậy 2 phản ứng, hoặc là hâm nóng khổ đau, nếu nỗi đau đó đã diễn ra trong quá khứ, nếu điều ta nghĩ đến là cái gì đó rất đẹp, thì dòng cảm xúc tiếc nuối sẽ trỗi dậy, làm chúng ta quên hiện tại, dồn quá nhiều năng lượng tâm trí cho chuyện không còn nữa, cho một trang sách đã qua.
Dự án kế hoạch chương trình cần được thực hiện theo những cơ chế nhân quả, nếu ta không thiết lập nền tảng đó sẽ làm cho chúng ta sống trong ảo mộng, phi hiện thực. Hãy quay về với hiện tại ta mới thấy những gì đang biểu hiện trong tâm, con người ta trở nên bình an sâu lắng.
Mỗi ngày nên thực tập thiền 2 lần, mỗi lần khoảng 30 phút, sáng và trước khi đi ngủ, sức khỏe được tăng trưởng các bệnh tật được khắc phục. Tập thiền là một phương pháp phi tôn giáo. Đó là sự chăm sóc về sức khỏe, về tâm lý, về hành vi, chăm sóc hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Thực tập thiền cần được hướng dẫn phương pháp căn bản. Khi có những dấu hiệu thay đổi trong tâm người thực tập được hướng dẫn để giúp vượt qua.
Cuối giờ Đại Đức Thích Nhật Từ giải đáp một số câu hỏi của các khán giả đưa ra, liên quan đến những hành vi bạo lực trong gia đình, nhà trường và xã hội, liên quan đến đời sống tâm lý và cách ứng xử liên quan giữa con người với con người. Tất cả những câu hỏi đều được Đại đức trả lời một cách cụ thể, rõ ràng minh bạch trong từng trường hợp.
Một đề tài thiết thực và nóng bỏng, một mối quan tâm bằng tất cả trái tim, hầu giữ cho mầm xanh của đất nước và những bông hoa của gia đình luôn mãi xanh tươi, đã được sự quan tâm của nhiều người có trách nhiệm và thao thức đến lớp người trẻ. Những chương trình, những đề tài thật ý nghĩa đã được đem ra thảo luận, và càng ý nghĩa hơn nữa, một Trung Tâm Công Giáo mở cửa đón chào một nhà Sư Phật giáo đến để cùng nhau chia sẻ nỗi thao thức của mình, cho ta thấy việc nuôi dưỡng và giáo dục giới trẻ không phải là của riêng tôn giáo nào, tổ chức nào hay nhóm người nào, mà là trách nhiệm chung của mọi thành phần trong xã hội.
Ở đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời. Dù dưới một lớp áo nào, nếu người đó mang trong mình một con tim biết rung cảm yêu thương đồng loại thì dấu hiệu người đó thuộc về CHÂN – THIỆN - MỸ, là con cái của SỰ SÁNG. Còn ở đâu có ghen ghét, hận thù, chia rẽ và bạo lực ở đó chỉ gặp toàn những nỗi khổ, niềm đau, ai gieo sự ác, chia rẽ và hận thù kẻ đó còn đi trong bóng tối.
Và theo quan niệm của nhà Phật thì nếu cần phải làm một cuộc thánh chiến thì tất cả nhân loại chúng ta phải nối kết lại chống lại các kẻ thù chung của toàn nhân loại đó là, tham lam, sân hận và si mê vì nó có mặt chỗ nào thì hạnh phúc, hòa bình bị đe dọa chỗ đó.
Bạo lực học đường đang là mối quan tâm của toàn xã hội, của mọi tôn giáo, của các bậc làm cha mẹ, với sự nối kết chặt chẽ của mọi thành phần trong xã hội bằng một tình yêu bao dung, nhân hậu, tin chắc rằng bạo lực học đường sẽ tìm ra được phương hướng giải quyết đúng đắn, đem lại sự hài hòa, yên vui cho con em chúng ta, cho gia đình, nhà trường và cho toàn xã hội.
Chỉ có tình yêu bao dung, nhân hậu mới có thể cảm hóa được con người quay về với chính nghĩa. Một ngọn nến sẽ là điểm sáng soi đường cho người đi trong đêm tối, nhiều ngọn nến cùng thắp lên một lúc sẽ xua tan màn đêm, giúp cho con người tin tưởng, an bình bước đi trong niềm vui, hạnh phúc, và mầm xanh đất nước mới có cơ hội đâm chồi, nảy lộc và vươn cao.
Đại Đức Thích Nhật Từ trình bày
AP. Mặc Trầm Cung tường trình.